Bước tới nội dung

Vũ Công Tự

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vũ Công Tự
Tên chữKế Chi
Tên hiệuTinh Hải ngư nhân, Trúc Thôn
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
1855
Nơi sinh
làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định
Mất
Ngày mất
1920 (64–65 tuổi)
Nơi mất
Nam Định
Gia quyến
Thân phụ
Vũ Công Độ
Quốc giaĐại Nam, Liên bang Đông Dương
Thời kỳNhà Nguyễn

Vũ Công Tự (1855-1920), tự Kế Chi, hiệu là Tinh Hải ngư nhânTrúc Thôn; là chiến sĩ trong phong trào Cần Vương và là nhà thơ Việt Nam.

Tiểu sử sơ lược

[sửa | sửa mã nguồn]

Vũ Công Tự sinh ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc (nay là thành phố Nam Định) tỉnh Nam Định.

Ông là con trai thứ ba của tiến sĩ Vũ Công Độ, làm quan lớn triều Nguyễn. Vì vậy, tuy thi Hương không đỗ, nhưng Vũ Công Tự vẫn được vào học trường Quốc tử giámHuế nhờ có chân ấm sinh[1].

Đến khi anh rể là Trần Bích San làm tuần phủ Hà Nội, ông ra giúp việc cho anh rồi cho cha, khi Vũ Công Độ được cử làm bố chính Bắc NinhHải Dương.

Đêm 4, sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885[2], sau cuộc tấn công quân Pháp ở Huế thất bại, vua Hàm Nghi xuất bôn rồi ban dụ Cần Vương, Vũ Công Tự liền cùng với bố chính về hưu là Bùi Công Kỳ, cử nhân Võ Huy Sĩ và một nhóm văn thân trong tỉnh chiêu mộ quân dũng, rồi tuyên bố chống Pháp đến cùng.

Mãi đến năm 1906, Vũ Công Tự mới âm thầm trở về sống ở làng, khi mà các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp lần lượt đã bị đối phương tiêu diệt hết.

Năm 1920, Vũ công Tự mất, thọ 65 tuổi.

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]

Thơ của Vũ Công Tự hiện còn lại 150 bài chữ Hán, được chép trong:

  • Lãi Minh thi thảo
  • Thính già thi thảo

Thơ ông nồng đượm tình yêu nước thương dân, ý tứ khoáng đạt...[3]

Thơ Vũ Công Tự

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858-1920) có giới thiệu 5 bài thơ của Vũ Công Tự. Ở đây trích giới thiệu một bài:

Phiên âm Hán-Việt
Ninh thành thất thủ, tự Bắc bôn Nhã Nam, đạo trung tác
Nhĩ biên kiếm kích loạn như ma,
Nhiễm nhiễm tiềm thôn nhật ảnh tà.
Tuyệt phố hốt văn cầu hữu điểu,
Thâm nham thời kiến tiếu nhân hoa.
Thân phi mộc thạch năng vong thế,
Nhục cộng sơn hà cảm thế gia.
Thiên cổ Ly minh văn hiến địa,
Vị ưng nhất đán tận tiêu ma.
(Lãi Minh thi thảo)
Dịch nghĩa:
Thành Bắc Ninh mất, từ Bắc Ninh chạy lên Nhã Nam, dọc đường làm thơ này
Bên tai, tiếng gươm giáo khua rối loạn,
Thôn xóm phía trước chìm dần trong ánh chiều tà.
Nơi bờ sông nghẹn lối, chợt nghe tiếng chim gọi bạn,
Trong núi sâu thường thấy hoa cười giỡn người.
Thân này đâu phải gỗ đá mà quên việc đời,
Chung nhục với giang sơn, há dám tính đến chuyện nhà.
Từ ngàn xưa Ly minh[4] là đất văn hiến,
Chưa thể một sớm đã tiêu ma hết.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Vì thế dân gian còn gọi ông là Khóa Tự hay Ba Tự.
  2. ^ Xem trang Trận Kinh thành Huế 1885.
  3. ^ Theo nhận xét của nhóm tác giả sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tr. 363.
  4. ^ Ly minh chỉ nước Nam, tức Việt Nam.

Sách tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.
  • Nhiều người soạn (Huỳnh Lý chủ biên), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858-1920). Nhà xuất bản Văn Học, 1984.